Trồng rau tại nhà, dịch vụ trồng rau tại nhà
» » Tìm hiểu về phân vô cơ và ảnh hưởng của nó

    Trong các bài viết trước, tôi đã trình bày tác dụng của phân hữu cơ cũng như các vấn đề liên quan như: cách ủ phân hữu cơ, yếu tố hình thành phân hữu cơ cũng như các ảnh hưởng của vi sinh vật đến quá trình hình thành phân hữu cơ. Trong bài viết tiếp theo này, tôi sẽ tóm tắt một số vấn đề liên quan đến phân vô cơ nói chung.

Ảnh minh hoạ: Phân vô cơ - nguồn http://www.vaas.org.vn
Bài viết trình bày gồm 02 phần. 
- Phần I sẽ trình bày các khái niệm, vai trò chức năng của từng loại phân vô cơ, cách sử dụng cũng như những lưu ý quan trọng khi dùng phân vô cơ để bón cho cây trồng. 
- Phần II sẽ trình bày một số ảnh hưởng của phân vô cơ đối với đất, cây trồng, môi trường và con người.

Nội dung trình bày:

Phần I. Phân vô cơ
1. Khái niệm
2. Phân đạm
2.1. Khái niệm
2.2. Chức năng
2.3. Phân loại
2.3.1. Phân urê
2.3.2. Phân amôn nitrat
2.3.3. Phân sunphat đạm
2.3.4. Phân đạm clorua
2.3.5. Phân Xianamit canxi
2.3.6. Phân photphat đạm
2.3.7. Lưu ý khi sử dụng phân đạm
3. Phân lân
3.1. Vai trò, chức năng
3.2. Phân loại
3.2.1. Phôtphat nội địa
3.2.2. Phân apatit
3.2.3. Supe lân
3.2.4. Tecmô phôtphat (phân lân nung chảy, lân Văn Điển)
3.2.5. Phân lân kết tủa
4. Phân kali
4.1. Vai trò, chức năng
4.2. Những lưu ý khi sử dụng phân kali bón cho cây:
4.3. Phân loại:
4.3.1. Phân clorua kali
4.3.2. Phân sunphat kali
4.3.3. Một số loại phân kali khác

Phần II. Ảnh hưởng của phân vô cơ (phân hoá học)
1. Tổng quan:
2. Ảnh hưởng của phân vô cơ đối với tính chất lý hoá của đất.
2.1. Về mặt vật lý
2.2. Về mặt hoá học
3. Ảnh hưởng của phân bón hoá học đối với sức khoẻ con người

Phần I. Phân vô cơ

1. Khái niệm:
- Phần vô cơ là gì? Đó là những hoá chất (hoá học), chứa các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây. Nó được bón vào đất để bổ sung hàm lượng dinh dưỡng trong đất, giúp cây phát triển tốt, tăng năng suất cây trồng.

- Phân loại: Phân vô cơ gồm có: Phân đạm, phân lân, phân kali, phân phức hợp, phân hỗn hợp, phân vi lượng.

2. Phân đạm:
2.1. Khái niệm:
Ảnh minh hoạ: Một dạng phân đạm - nguồn: timphanbon.com
Phân đạm là tên gọi chung của các loại phân bón vô cơ cung cấp đạm cho cây.

2.2. Chức năng
- Đạm là chất dinh dưỡng rất cần thiết và rất quan trọng đối với cây. 
- Đạm là nguyên tố tham gia vào thành phần chính của clorophin, prôtit, các axit amin, các enzym và nhiều loại vitamin trong cây. Bón đạm thúc đẩy quá trình tăng trưởng của cây, làm cho cây ra nhiều nhánh, phân cành, ra lá nhiều; lá cây có kích thước to, màu xanh; lá quang hợp mạnh, do đó làm tăng năng suất cây.
- Phân đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng, đặc biệt là giai đoạn cây sinh trưởng mạnh. Trong số các nhóm cây trồng đạm rất cần cho các loại cây ăn lá như rau cải, cải bắp, v.v.

2.3. Phân loại
- Có các loại phân đạm thường dùng sau đây:

2.3.1. Phân Urê:
- Về mặt hoá học: 
+ Công thức: Ure có công thức hoá học là CO(NH2)2
+ Trong quá trình sản xuất, urê thường liên kết các phần tử với nhau tạo thành biuret. Đó là chất độc hại biuret đối với cây trồng. Vì vậy, trong phân urê không được có quá 1,5% biuret (theo Tiêu chuẩn Việt Nam).
+ Thành phần: có 44–48% nitơ (N) nguyên chất..
+ Loại phân này chiếm 59% tổng số các loại phân đạm được sản xuất ở các nước trên thế giới. Urê là loại phân có tỷ lệ nitơ cao nhất. 

- Phân loại và đóng gói: 
Trên thị trường có bán 2 loại phân urê, có chất lượng giống nhau:
 a. Loại tinh thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm là hút ẩm mạnh.
 b. Loại có dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm nên dễ bảo quản, dễ vận chuyển nên được dùng nhiều trong sản xuất nông nghiệp.

- Chức năng và cách dùng: 
+ Phân urê có khả năng thích nghi rộng và có khả năng phát huy tác dụng trên nhiều loại đất khác nhau và đối với các loại cây trồng khác nhau. Phân này bón thích hợp trên đất chua phèn.
+ Phân urê được dùng để bón thúc. Có thể pha loãng theo nồng độ 0.5–1.5% để phun lên lá.
+ Trong chăn nuôi, urê được dùng trực tiếp bằng cách cho thêm vào khẩu phần thức ăn cho lợn, trâu bò. Phân này cần được bảo quản kỹ trong túi pôliêtilen và không được phơi ra nắng. Bởi vì khi tiếp xúc với không khí và ánh nắng urê rất dễ bị phân huỷ và bay hơi. Các túi phân urê khi đã mở ra cần được dùng hết ngay trong thời gian ngắn.

2.3.2. Phân amôn nitrat:
- Về mặt hoá học:
+ Công thức: Phân amôn nitrat có công thức là (NH4NO3)
+ Thành phần: có chứa 33–35% nitơ nguyên chất. Ở các nước trên thế giới loại phân này chiếm 11% tổng số phân đạm được sản xuất hàng năm.

- Đóng gói:
+ Phân này ở dưới dạng tinh thể muối kết tinh có màu vàng xám. Amôn nitrat dễ chảy nước, dễ tan trong nước, dễ vón cục, khó bảo quản và khó sử dụng. 

+ Là loại phân sinh lý chua. Tuy vậy, đây là loại phân bón quý vì có chứa cả ion NH4+ và cả NO3- 
+ Phân này có thể bón cho nhiều loại cây trồng trên nhiều loại đất khác nhau. Amôn nitrat bón thích hợp cho nhiều loại cây trồng cạn như thuốc lá, bông, mía, ngô…

- Chức năng và cách dùng:
+ Phân này được dùng để pha thành dung dịch dinh dưỡng để tưới cây trong nhà kính và tưới bón thúc cho nhiều loại rau, cây ăn quả.

2.3.3. Phân sunphat đạm
- Về mặt hoá học:
+ Công thức: Phân sunphat đạm có công thức hoá học là ((NH4)2SO4
+ Thành phần: Có chứa 20–21% nitơ nguyên chất. Trong phân này còn có 24-25% lưu huỳnh (S). Trên thế giới loại phân này chiếm 8% tổng lượng phân hoá học sản xuất hàng năm. Phân này có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xám xanh. Phân này có mùi nước tiểu (mùi amôniac), vị mặn và hơi chua. Cho nên nhiều nơi gọi là phân muối diêm.
Sunphat đạm là loại phân bón tốt vì có cả N và lưu huỳnh là hai chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây.

- Phân loại và đóng gói:
+ Phân này dễ tan trong nước, không vón cục. 
+ Thường ở trạng thái tơi rời, dễ bảo quản, dễ sử dụng. Tuy nhiên, nếu để trong môi trường ẩm phân dễ vón cục, đóng lại thành từng tảng rất khó đem bón cho cây.

- Chức năng và cách dùng: 
+ Có thể đem bón cho tất cả các loại cây trồng, trên nhiều loại đất khác nhau, miễn là đất không bị phèn, bị chua. Nếu đất chua cần bón thêm vôi, lân mới dùng được đạm sunphat amôn. Phân này dùng tốt cho cây trồng trên đất đồi, trên các loại đất bạc màu (thiếu S).
+ Đạm sunphat được dùng chuyên để bón cho các loài cây cần nhiều lưu huỳnh (S) và ít nitor (N), như đậu đỗ, lạc... và các loại vây vừa cần nhiều S vừa cần nhiều N như ngô.
+ Cần lưu ý, đạm sunphat là loại phân có tác dụng nhanh, rất chóng phát huy tác dụng đối với cây trồng, cho nên thường được dùng để bón thúc và bón thành nhiều lần để tránh mất đạm.

+ Khi bón cho cây con cần chú ý là phân này dễ gây cháy lá. Không nên sử dụng phân đạm sunphat để bón trên đất phèn, vì phân dễ làm chua thêm đất.

2.3.3. Phân đạm clorua
- Về mặt hoá học: 
+ Công thức: Phân đạm clorua có công thức hoá học là (NH4Cl)
+ Thành phần: Có chứa 24–25% nitơ nguyên chất. 

- Phân loại và đóng gói:
+ Đạm clorua có dạng tinh thể mịn, màu trắng hoặc vàng ngà. 
+ Phân này dễ tan trong nước, ít hút ẩm, không bị vón cục, thường tơi rời nên dễ sử dụng.

- Chức năng và cách dùng: 
+ Là loại phân sinh lý chua. Vì vậy, nên bón kết hợp với lân và các loại phân bón khác. Đạm clorua không nên dùng để bón cho thuốc lá, chè, khoai tây, hành, tỏi, bắp cải, vừng, v.v.
+ Ở các vùng khô hạn, ở các chân đất nhiễm mặn không nên bón phân đạm clorua, vì ở những nơi này trong đất có thể tích luỹ nhiều clo, dễ làm cho cây bị ngộ độc.

2.3.5. Phân Xianamit canxi
- Về mặt hoá học:
+ Công thức:
+ Thành phần: Xianamit canxi có chứa 20 – 21% N nguyên chất, 20 – 28% vôi, 9 – 12% than 

- Phân loại và đóng gói:
+ Phân này có dạng bột không có tinh thể, màu xám tro hoặc màu trắng, đốt không có mùi khai. 
+ Vì có than cho nên phân có màu xám đen. Cũng có loại phân tỷ lệ than thấp hoặc không có than nên phân có màu trắng. Cần chú ý chống ẩm cho phân khi bảo quản, bởi vì nếu phân hút ẩm sẽ bị biến chất, hạt phân phình to lên làm rách bao bì và làm hỏng dụng cụ đựng. Phân này dễ bốc bụi. Khi bám vào da sẽ làm hỏng da, phân bay vào mắt sẽ làm hỏng giác mạc mắt, vì vậy khi sử dụng phân này phải rất cẩn thận. 

- Chức năng và cách dùng:
+ Phân này có phản ứng kiềm, bởi vậy có thể khử được chua, dùng rất tốt ở các loại đất chua. Xianamit canxi thường được dùng để bón lót.
+ Muốn dùng để bón thúc phải đem ủ trước khi bón. Bởi vì phân này khi phân giải tạo ra một số chất độc có thể làm hỏng móng chân trâu bò, hại da chân người nông dân. Thường sau 7 – 10 ngày các chất độc mới hết. Thường xianamit canxi được trộn ủ với phân rác làm cho phân chóng hoai mục. 
+ Phân này không được dùng để phun lên lá cây.

2.3.6. Phân phôtphat đạm (còn gọi là phốt phát amôn)
- Về mặt hoá học:
+ Công thức: 
+ Thành phần: Là loại phân vừa có đạm, vừa có lân. Trong phân có tỷ lệ đạm là 10-18%, tỷ lệ lân là 44-50%.

- Phân loại và đóng gói:
+ Phôtphat đạm có dạng viên, màu xám tro hoặc trắng, nói chung màu sắc tùy thuộc vào nhà sản xuất và không ảnh hưởng tới chất lượng. Trên thị trường hiện nay đang lưu hành hai loại phân bón ammonphot là DAP(18-46-0) và MAP( 10-50-0). Phân dễ chảy nước. Vì vậy, người ta thường sản xuất dưới dạng viên và được đựng trong các bao nilông. 

- Chức năng và cách dùng:
+ Phân rất dễ tan trong nước và phát huy hiệu quả nhanh. 
+ Phân được dùng để bón lót, bón thúc đều tốt. Phân là loại dễ sử dụng. Phân DAP là loại phân trung tính nên có thể sử dụng trên các loại đất khác nhau, còn phân MAP là loại chua sinh lý(pH: 4-4.5) nên không thích hợp đối với các loại đất chua. 
+ Phân có tỷ lệ đạm hơi thấp so với lân, cho nên cần bón phối hợp với các loại phân đạm khác, nhất là khi bón cho các loại cây cần nhiều đạm.

2.3.7. Những điều cần chú ý khi sử dụng phân đạm
- Ở nước ta có 3 loại phân đạm thường được dùng phổ biến nhất, đó là: phân urê, phân amôn sunphat và phân amôn phôtphat. Khi được sử dụng hợp lý, 1 kg N nguyên chất có thể thu được 10 - 22 kg thóc hoặc 25 - 35 kg ngô hạt. 

Lưu ý: Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các loại phân hoá học cần chú ý đến những điểm sau đây:
  a. Phân cần được bảo quản trong các túi nilông. Chỗ để phân cần thoáng mát, khô ráo, mái kho không bị dột. Không để chung phân đạm cùng với các loại phân khác.
  b. Cần bón đúng đặc tính và nhu cầu của cây trồng. Cây có những đặc tính rất khác nhau. Nhu cầu của cây đối với N cũng rất khác nhau. Có cây yêu cầu nhiều N, có cây yêu cầu ít. Nếu bón N nhiều, vượt quá yêu cầu của cây, N cũng gây ra những tác hại đáng kể. Bón đúng yêu cầu của cây, N phát huy tác dụng rất tốt.
  c. Cần bón đúng dạng phân theo đặc điểm của cây và của đất đai. Đối với các loại cây trồng cạn như: ngô, mía, bông v.v.. bón đạm nitrat là thích hợp, nhưng đối với lúa nước nên bón đạm clorua hoặc SA. Đối với các loại cây họ đậu nên bón đạm sớm, trước khi nốt sần được hình thành trên rễ cây. Khi trên rễ cây đã có các nốt sần, không nên bón đạm, vì đạm ngăn trở hoạt động cố định đạm từ không khí của các loài vi khuẩn nốt sần.
  d. Cần bón đạm đúng với đặc điểm của đất:
- Phân có tính kiềm nên bón cho đất chua. Phân chua sinh lý nên bón cho đất kiềm. Đất lầy thụt, nhiều bùn không cần bón phân đạm.
  Lưu ý:
  + Cần bón đạm đúng lúc. Tốt nhất là bón vào thời kỳ sinh trưởng mạnh nhất của cây.
  + Cần bón đạm đúng liều lượng và cân đối với lân và kali.
  + Bón phân đạm cần lưu ý đến diễn biến của thời tiết. Không bón lúc mưa to, lúc ruộng vườn đầy nước.
  + Không bón đạm tập trung vào một lúc, một chỗ, mà cần chia thành nhiều lần để bón và bón vãi đều trên mặt đất ở những nơi cần bón. Không bón đạm quá thừa. Vì khi thừa đạm, cây phát triển mạnh, dễ đổ ngã, ra hoa chậm, ít hạt, hạt lép nhiều, quả dễ rụng, nhiều sâu bệnh, phẩm chất quả giảm. Tốn tiền mua phân đạm mà không thu được kết quả gì, gây lãng phí.
  + Bón phân đạm cần kết hợp với làm cỏ, xới đất, sục bùn (đối với lúa).

3. Phân lân 
3.1. Vai trò, chức năng: 
Ảnh minh hoạ: Một loại lân thông dụng - nguồn: http://tiennong.vn
- Lân có vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng.
- Lân có trong thành phần của hạt nhân tế bào, rất cần cho việc hình thành các bộ phận mới của cây. 
- Lân tham gia vào thành phần các enzim, các prôtêin, tham gia vào quá trình tổng hợp các axit amin. 
- Lân kích thích sự phát triển của rễ cây, làm cho rễ ăn sâu vào đất và lan rộng ra chung quanh, tạo thêm điều kiện cho cây chống chịu được hạn và ít đổ ngã. 
- Lân kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoa kết quả sớm và nhiều. 
- Lân làm tăng đặc tính chống chịu của cây đối với các yếu tố không thuận lợi: chống rét, chống hạn, chịu độ chua của đất, chống một số loại sâu bệnh hại v.v… 
- Ở một số loại đất trên nước ta, lân trở thành yếu tố hạn chế đối với năng suất cây trồng. Đặc biệt ở hầu hết các loại đất trồng lúa ở các tỉnh phía Nam. Thiếu lân không những làm cho năng suất cây trồng giảm mà còn hạn chế hiệu quả của phân đạm. 
- Hiệu suất của phân lân khá cao. Trên một số loại đất ở Tây Nguyên bón 1 kg P2O5 cho hiệu quả thu được 4,3 – 7,5 kg cà phê nhân, 8,5 kg thóc. Ở các vùng đất phèn mới khai hoang, hiệu suất của phân lân càng cao hơn, 1 kg P2O5 mang lại 9,0 kg thóc, ở mức bón 40 – 60 kg P2O5/ha. Bón quá nhiều phân lân trong nhiều trường hợp có thể làm cho cây bị thiếu một số nguyên tố vi lượng. Vì vậy, cần bón thêm phân vi lượng, nhất là Zn.

3.2. Phân loại:
3.2.1. Phôtphat nội địa
- Đó là loại bột mịn mang, màu nâu thẫm hoặc đôi khi có màu nâu nhạt. 
- Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi rất nhiều, từ 15% đến 25%. Loại phân thường có trên thị trường có tỷ lệ là 15 – 18%. 
- Trong phân phôtphat nội địa, phần lớn các hợp chất lân nằm ở dạng khó tiêu đối với cây trồng. Phân có tỷ lệ vôi cao, cho nên có khả năng khử chua. Vì lân trong phân ở dưới dạng khó tiêu, cho nên phân chỉ dùng có hiệu quả ở các chân đất chua. 
- Ở các chân ruộng không chua, hiệu lực của loại phân này thấp; ở loại đất này, loại phân này dùng bón cho cây phân xanh có thể phát huy được hiệu lực. 
- Phân này chỉ nên dùng để bón lót, không dùng để bón thúc. Khi sử dụng có thể trộn với phân đạm để bón, nhưng trộn xong phải đem bón ngay, không được để lâu. Phân này dùng để ủ với phân chuồng rất tốt. Phân phôtphat nội địa ít hút ẩm, ít bị biến chất, cho nên có thể cất giữ được lâu. Vì vậy, bảo quản tương đối dễ dàng.

3.2.2. Phân apatit
- Là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc màu xám nâu. 
- Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi nhiều. Thường người ta chia thành 3 loại: loại apatit giàu có trên 38% lân; loại phân apatit trung bình có 17 – 38% lân; loại phân apatit nghèo có dưới 17% lân. 
- Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế biến thành các loại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới được đem nghiền thành bột để bón cho cây. 
- Phần lớn lân trong phân apatit ở dưới dạng cây khó sử dụng. Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất. Phân này được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa. 
- Sử dụng và bảo quản phân này tương đối dễ dàng vì phân ít hút ẩm và ít biến chất.

3.2.3. Supe lân
- Là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc. 
- Một số trường hợp supe lân được sản xuất dưới dạng viên. Trong supe lân có 16 – 20% lân nguyên chất. Ngoài ra, trong phân này có chứa một lượng lớn thạch cao. 
- Trong phân còn chứa một lượng khá lớn axit, vì vậy phân có phản ứng chua. Phân dễ hoà tan trong nước cho nên cây dễ sử dụng. Phân thường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Supe lân có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được. 
- Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất trung tính, đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên bón vôi khử chua trước khi bón supe lân. Supe lân có thể dùng để ủ với phân chuồng. Nếu supe lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi sử dụng. Có thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua nhiều dùng 15 – 20% apatit để trung hoà, đất chua ít dùng 10 – 15%. Nếu dùng tro bếp để trung hoà độ chua của supe lân thì dùng 10 – 15%, nếu dùng vôi thì tỷ lệ là 5 – 10%. 

- Phân supe lân thường phát huy hiệu quả nhanh, cho nên để tăng hiệu lực của phân, người ta thường bón tập trung, bón theo hốc, hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây. Phân này có thể dùng để hồ phân rễ mạ. 
- Supe lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ không cẩn thận phân có thể bị nhão và vón thành từng cục. 
- Phân có tính axit nên dễ làm hỏng bao bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt.

3.2.4. Tecmô phôtphat (phân lân nung chảy, lân Văn Điển 
- Phân có dạng bột màu xanh nhạt, gần như màu tro, có óng ánh. 
- Tỷ lệ lân nguyên chất trong tecmô phôtphat là 15 – 20%. Ngoài ra trong phân còn có canxi 30% một ít thành phần kiềm, chủ yếu là magiê 12 – 13%, có khi có cả kali. Tecmô phôtphat có phản ứng kiềm, cho nên không nên trộn lẫn với phân đạm vì dễ làm cho đạm bị mất. 
- Phân này không tan trong nước, nhưng tan được trong axit yếu. Cây sử dụng dễ dàng. Phân có thể sử dụng để bón lót hoặc bón thúc đều tốt. Tecmô phôtphat phát huy hiệu lực tốt ở các vùng đất chua, vì phân có phản ứng kiềm. 
- Phân sử dụng có hiệu quả trên các vùng đất cát nghèo, đất bạc màu vì phân chứa nhiều vôi, có các nguyên tố vi lượng và một ít kali. Phân này thường được bón rải, ít khi bón tập trung và ít được sản xuất dưới dạng viên. 
- Không sử dụng tecmô phôtphat để hồ phần rễ mạ. Tecmô phôtphat ít hút ẩm, luôn ở trong trạng thái tơi rời và không làm hỏng dụng cụ đong đựng.

3.2.5. Phân lân kết tủa
- Phân có dạng bột trắng, nhẹ, xốp trong giống như vôi bột. 
- Phân có tỷ lệ lân nguyên chất tương đối cao, đến 27 – 31%. Ngoài ra trong thành phần của phân có một ít canxi. Phân này được sử dụng tương tự như tecmô phôtphat. 
- Phân ít hút ẩm cho nên bảo quản dễ dàng.

4. Phân kali 
4.1. Vài trò, chức năng:
Ảnh minh hoạ: Một loại lân kali - nguồn: kenhdaihoc.com
- Phân kali thuộc nhóm phân bón cung cấp chất dinh dưỡng kali cho cây. 
- Kali có vai trò chủ yếu trong việc chuyển hoá năng lượng trong quá trình đồng hoá các chất dinh dưỡng của cây. 
- Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. 
- Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét. 
- Kali làm tăng phẩm chất nông sản và góp phần làm tăng năng suất của cây. 
- Kali làm tăng hàm lượng đường trong quả làm cho màu sắc quả đẹp tươi, làm cho hương vị quả thơm và làm tăng khả năng bảo quản của quả. 
- Kali làm tăng chất bột trong củ khoai, làm tăng hàm lượng đường trong mía. 
- Trên phương diện khối lượng, cây trồng cần nhiều K hơn N. Nhưng vì trong đất có tương đối nhiều K hơn N và P, cho nên người ta ít chú ý đến việc bón K cho cây. 
- Trong cây K được dự trữ nhiều ở thân lá, rơm rạ, cho nên sau khi thu hoạch kali được trả lại cho đất một lượng lớn. 
- Kali có nhiều trong nước ngầm, nước tưới, trong đất phù sa được bồi hàng năm. Vì vậy, việc bón phân kali cho cây không được chú ý đến nhiều. 
- Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp càng ngày người ta càng sử dụng nhiều giống cây trồng có năng suất cao. Những giống cây trồng này thường hút nhiều K từ đất, do đó lượng K trong đất không đủ đáp ứng nhu cầu của cây, vì vậy muốn có năng suất cao và chất lượng nông sản tốt, thì phải chú ý bón phân kali cho cây. Mặt khác, các bộ phận thân lá cây, rơm rạ, v.v.. sau khi thu hoạch sản phẩm chính của nông nghiệp, hiện nay được sử dụng nhiều để nuôi trồng nấm, làm vật liệu độn chuồng, làm chất đốt, v.v.. và bị đưa ra khỏi đồng ruộng, vì vậy, việc bón kali cho cây càng trở nên cần thiết. Những nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học cho thấy trừ đất phù sa sông Hồng có hàm lượng kali tương đối khá, còn lại phần lớn các loại đất ở nước ta đều nghèo kali. Hàm lượng kali ở các loại đất này thường là dưới 1%. Ở các loại đất xám, đất cát, đất bạc màu, đất nhẹ ở miền Trung nước ta, kali có ý nghĩa rất lớn trong việc làm tăng năng suất cây trồng. Kali cũng cho kết quả tốt trên đất xám Đông Nam Bộ. 

4.2. Những lưu ý khi sử dụng phân kali bón cho cây:
  + Bón kali ở các loại đất trung tính dễ làm cho đất trở nên chua. Vì vậy ở các loại đất trung tính nên kịp thời bón thêm vôi.
  + Kali nên bón kết hợp với các loại phân khác.
  + Kali có thể bón thúc bằng cách phun dung dịch lên lá vào các thời gian cây kết hoa, làm củ, tạo sợi.
  + Có thể bón tro bếp để thay thế phân kali.
  + Bón quá nhiều kali có thể gây tác động xấu lên rễ cây, làm cây teo rễ. Nếu bón quá thừa phân kali trong nhiều năm, có thể làm cho mất cân đối với natri, magiê. Khi xảy ra trường hợp này cần bón bổ sung các nguyên tố vi lượng magiê, natri.
  + Các loại cây có phản ứng tích cực với phân kali là: chè, mía, thuốc lá, dừa, chuối, khoai, sắn, bông, đay, 

4.3. Phân loại:
4.3.1. Phân clorua kali
- Phân có dạng bột màu hồng như muối ớt. Nông dân ở một số nơi gọi là phân muối ớt. Cũng có dạng clorua kali có màu xám đục hoặc xám trắng. 
- Phân được kết tinh thành hạt nhỏ. Hàm lượng kali nguyên chất trong phân là 50 – 60%. Ngoài ra trong phân còn có một ít muối ăn (NaCl). 
- Clorua kali là loại phân chua sinh lý. Phân này khi để khô có độ rời tốt, dễ bón. Nhưng nếu để ẩm phân kết dính lại với nhau khó sử dụng. 
- Hiện nay, phân clorua kali được sản xuất với khối lượng lớn trên thế giới và chiếm đến 93% tổng lượng phân kali. 
- Cloria kali có thể dùng để bón cho nhiều loại cây trên nhiều loại đất khác nhau. Có thể dùng phân này để bón lót hoặc bón thúc. Bón thúc lúc cây sắp ra hoa làm cho cây cứng cáp, tăng chất lượng nông sản. Clorua kali rất thích hợp với cây dừa vì dừa là cây ưa clo. 
- Không nên dùng phân này để bón vào đất mặn, là loại đất có nhiều clo, và không bón cho thuốc lá là loại cây không ưa clo. 
- Phân này cũng không nên dùng bón cho một số loài cây hương liệu, chè, cà phê, vì phân ảnh hưởng đến chất lượng nông sản.

4.3.2. Phân sunphat kali
- Phân có dạng tinh thể nhỏ, mịn, màu trắng. Phân dễ tan trong nước, ít hút ẩm nên ít vón cục. Hàm lượng kali nguyên chất trong sunphat kali là 45 – 50%. Ngoài ra trong phân còn chứa lưu huỳnh 18%. 
- Phân này có thể sử dụng thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Sử dụng có hiệu quả cao đối với cây có dầu, rau cải, thuốc lá, chè, cà phê. Sunphat kali là loại phân chua sinh lý. Sử dụng lâu trên một chân đất có thể làm tăng độ chua của đất. 
- Không dùng sunphat kali liên tục nhiều năm trên các loại đất chua, vì phân có thể làm tăng thêm độ chua của đất.

4.3.3. Một số loại phân kali khác
- Phân kali – magie sunphat có dạng bột mịn màu xám. Phân có hàm lượng K2O: 20 – 30%; MgO: 5 – 7%; S: 16 – 22%. 
- Phân này được sử dụng có hiệu quả trên đất cát nghèo, đất bạc màu. Phân “Agripac” của Canada có hàm lượng K2O là 61%. Đây là loại phân khô, hạt to, không vón cục, dễ bón, thường được dùng làm nguyên liệu để trộn với các loại phân bón khác sản xuất ra phân hỗn hợp. Muối kali 40% có dạng muối trắng kết tinh có lẫn một ít vảy màu hồng nhạt. 
- Ngoài hàm lượng kali chiếm 40% trong khối lượng phân, trong thành phần của phân còn có muối ăn với tỷ lệ cao hơn muối ăn trong phân clorua kali. Phân này cần được sử dụng hạn chế trên các loại đất mặn.

Phần B. Ảnh hưởng của phân vô cơ (phân hoá học)

1. Tổng quan:
- Để đạt năng suất cao trong canh tác cây trồng, bên cạnh phân hữu cơ được sử dụng thì chúng ta sử dụng rất nhiều phân vô cơ, đặc biệt là phân đạm. Khi sử dụng phân vô cơ nhiều rất dễ gây ra ô nhiễm môi trường do tồn dư của nó, nhất là khi không sử dụng theo liều lượng như khuyến cáo, dẫn đến hiện tượng đất bị chua hoá, kết cấu kém đi, hàm lượng chất vôi giảm, hoạt động của vi sinh vật trong đất giảm, có sự tích tụ nitrat, kim loại nặng một số vùng.

2. Ảnh hưởng của phân vô cơ đối với tính chất lý hoá của đất.
2.1. Về mặt vật lý
- Gây ảnh hưởng tới độ nén dẽ (chai cứng) đất:
+ Do đất được canh tác liên tục trong nhiều năm dẫn đến tồn dư lượng phân bón hoá học trong đất ngày càng tăng cao. Chính lượng phân bón này làm ảnh hưởng tới sự nén dẽ của đất, ảnh hưởng trực tiếp tới độ phì nhiêu của đất. Đất bị nén dẽ làm giảm khả năng thấm nước của đất và ảnh hưởng quan trọng đến sự tăng trưởng của bộ rễ. Mặt khác, sự nén dẽ cũng làm mất cân đối về thành phần chất rắn, khí và nước trong đất, hoạt động của vi sinh vật kém.
+ Sự nén dẽ cũng làm thay đổi một số đặc tính vật lý đất như dung trọng đất, độ chặt, độ xốp, khả năng thấm của đất. Những thay đổi này làm ảnh hưởng đến sự di chuyển của nước và không khí trong đất, làm tăng sự chảy tràn nước trên bề mặt dẫn đến khả năng dự trữ nước trong đất giảm.
+ Sự nén dẽ cũng làm thay đổi các phản ứng hoá học trong đất vì thiếu oxy trong đất. Do đó, một số chất được tạo ra mà cây không hấp thụ được, thay đổi độ pH, thay đổi lượng axit hữu cơ trong đất.

- Gây ảnh hưởng tới dung trọng và độ xốp đất.
+ Trong quá trình bón phân hoá học thì thường cây trồng chỉ hấp thu được từ 30-50% lượng phân bón, do đó lượng phân bón còn lại trong đất dễ gây ảnh hưởng đến thành phần khoáng, hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc đất. Đây chính là các yếu tố cấu thành tính chất vật lý của đất: dung trọng và độ xốp đất. Khi yếu tố này thấp thì cây hấp thụ chất dinh dưỡng tốt. Khi yếu tố này cao sẽ làm giảm sự phát triển của hệ rễ cây trồng, giới hạn khả năng hấp thu dinh dưỡng, nước cũng như sự phát triển của bộ rễ. Điều này sẽ dẫn đến năng suất cây trồng giảm.

2.2. Về mặt hoá học:
- Sử dụng phân hoá học bừa bãi mà ít quan tâm đến sử dụng phân hữu cơ để bù đắp lại các thành phần dinh dưỡng, các yếu tố cấu thành đất dần dần sẽ làm thay đổi tính chất hoá học của đất, cụ thể là:
+ Thuỷ phân urê:
Phân ure tan trong nước, sau khi bón vào đất do tác động của men ure sẽ phân giải thành (NH4)2CO3 qua phản ứng hoá học sau:
CO(NH2)2 + 2H2O = (NH4)2CO3
+ Bay hơi amonia:
Bón phân ure và amonium sulphate có thể gây ra sự thất thoát NH3 vào không khí
Sự bón phân làm thúc đẩy tiến trình quang hợp của rong, tảo:
nCO2 + nH2O = (CH2O)n + nO2
Chính rong tảo có vai trò gián tiếp trong việc làm tăng pH do sự tiêu thụ H+ qua phản ứng sau:
CO2(không khí) + H2O = H2CO3
+ Ô nhiễm NO3 từ phân nitrat trong dung dịch đất hữu dụng ngay cho cây cũng dễ dàng bị thấm hoặc rửa trôi. Các cây màu thường hấp thụ N dưới dạng nitrat.
NH4 có thể chuyển thành dạng NO3 do sự nitrat hoá do vi sinh vật. Dạng NO3 từ phân bón hoặc được tạo ra từ sự nitrat hoá thì rất dễ bị rửa trôi vì không hấp thụ bởi keo đất mang điện tích dương.
+ Gây chua cho đất:
Ảnh hưởng quan trọng nhất của phân N là sự gây chua đất của phân ammonium và amide. Tác động gây chua một số loại phân N.
Quá trình nitrat hoá SA tạo ra trong đất 2 loại axid: HNO3 và H2SO4 thể hiện qua phản ứng hoá học:
(NH4)2SO4 + 4O2 = 2HNO3 + H2SO4 + 2H20
Ở đất chua, bón phân Sunphat Ammoni (SA) có khả năng đẩy ra một lượng độ chua trao đổi lớn:
(NH4)2SO4 = Keo đất + H2SO4
Ở đất không chua, ion NH4+ bị hấp thu vào keo đất và đẩy CA2+ ra. Do đó, bón SA làm cho đất mất vôi dần, lâu ngày làm cho đất hoá chua
 thể hiện qua giá trị độ pH của đất. Độ pH thích hợp cho đất và cây có thể phát triển bình thường là trong khoảng từ 5,5 – 7. Khi đất có độ pH thấp < 5,5 (đất mang tính axit) hay > 7 (đất mang tính kiềm) thì cây đều khó hấp thụ dinh dưỡng có trong đất. Với pH thích hợp, các vi sinh vật hoạt động hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tạo mùn trong đất, giúp cải tạo đất, làm tăng độ phì của đất đồng thời làm tăng khả năng chống chịu những điều kiện thời tiết bất lợi.

3. Ảnh hưởng của phân vô cơ đối với sức khoẻ con người.
  Qua xem xét ảnh hưởng ở trên ta thấy, khi dùng phân bón hoá học sẽ có một số ảnh hưởng tới sức khoẻ con người như: 
- Gây các bệnh methaemoglobin và ung thư tiềm tàng nếu ăn phải thực phẩm có tồn dư NO3- và NO2-
- Làm giảm khả năng hấp thụ can xi nếu ăn phải các sản phẩm dư thừa photpho, dễ gây bệnh loãng xương, đặc biệt ở phụ nữ.
- Và nhiều bệnh lý khác gặp phải khi ăn phải cây trồng bị nhiễm độc hoá học từ phân bón. 

Nguồn và tài liệu tham khảo:
    + Ảnh: Trên internet
    + Thư viên bách khoa toàn thư http://vi.wikipedia.org
   + Các bài báo khoa học và các tài liệu chuyên ngành của các tácg giả: Tạ Thu Cúc - 2005, Lê Văn Khoa và cộng tác viên - 2003, Võ Thị Gương - 2004, Lê Huy Bá - 2000, Hồng Hưng, Hammel - 1994, Unger and Kaspar- 1994, Karchinski - 1965, Vũ Hữu Yêm - 2005...

    

Dịch vụ Trồng Rau tại nhà

Hệ thống trồng cây OHF bao gồm các chậu có hình hoa, sáu cánh có thể xếp trồng lên nhau tạo thành hình trụ thắng đứng. Khi sử dụng hệ thống trồng cây OHF không những có thể tiếp kiệm được không gian, tăng năng xuất cây trồng mà còn tạo ra một không gian vườn 3D đẹp mắt. Với thiết kế đặc biệt, hệ thống trông cây OHF đảm bảo đủ không gian, ánh sáng cho cây rau, hoa phát triển bình thường mà lại hạn chế được sự phá hoại của sinh vật gây hại, giảm thiểu sự thoát hơi nước góp phần tiết kiệm nước.
«
Next
Bài đăng Mới hơn
»
Previous
Bài đăng Cũ hơn

Không có nhận xét nào:

Leave a Reply